(KTSG Online) – Khu công nghiệp sinh thái (EIP) được xem là nền tảng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi giao thông xanh nhờ tập trung được cụm nhà máy, trung tâm logistics và dịch vụ công nghiệp. Ngoài ra, EIP được hưởng lợi từ các ưu đãi theo quy định trong các kế hoạch tăng trưởng xanh.
- Xanh và bền vững: gió có đổi chiều trong năm 2025?
- Cơ hội ngành nhựa còn lớn nhưng thách thức từ xanh hóa không nhỏ
Chiều nay (25-6), trong khuôn khổ Diễn đàn ESG 2025 đã diễn ra hội thảo chuyên đề “Logistics xanh hướng tới khu công nghiệp sinh thái”. Các bên tập trung thảo luận vai trò của logistics bền vững và tối ưu chuỗi cung ứng trong mô hình khu công nghiệp sinh thái.
Tại đây, ông Trần Việt Huy, Giám đốc điều hành TRASAS, Trưởng ban Hải quan và tạo thuận lợi thương mại, Hiệp hội Doanh nghiệp logistics Việt Nam (VLA), chia sẻ TRASAS đang phấn đấu trở thành đối tác logistics xanh và minh bạch. Dẫn ví dụ minh họa, ông cho biết, công ty đang hợp tác và học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trước mắt, công ty đã sử dụng phần mềm VertZéro để quản lý và báo cáo phát thải carbon.
Theo ông Huy, những động lực thúc đẩy ESG (môi trường, xã hội, quản trị) bao gồm yêu cầu từ khách hàng, tổ chức tài chính, nhận thức nội bộ cũng như sự tuân thủ quy định pháp luật. Việc thực hiện ESG tốt góp phần nâng cao giá trị thương hiệu, giảm chi phí, thu hút đầu tư.
Từ góc nhìn của nhà cung cấp dịch vụ logistics, việc phát triển logistics xanh tại các khu công nghiệp đang đối mặt với những thách thức như cơ sở hạ tầng chỉ tập trung vào đường bộ. Điều này hạn chế sự lựa chọn thay thế phát thải thấp như đường sắt hoặc đường thủy.
Ngoài ra, khu công nghiệp giao cắt với đô thị gây ra ô nhiễm không khí và tiếng ồn, dẫn đến chi phí logistics cao hơn đáng kể. Một số thách thức khác như gặp rào cản đối với việc áp dụng năng lượng tái tạo, đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho hoạt động logistics phát thải thấp, khuyến khích sạc xe điện còn hạn chế.
Xoay quanh câu chuyện logistics xanh, ông Lê Hoàng Anh, Nhà sáng lập, Tổng giám đốc điều hành Eco-Truck, chia sẻ vận tải đường bộ B2B (vận chuyển hàng hóa giữa các doanh nghiệp với nhau) cũng là phần quan trọng của ngành logistics tại Việt Nam. Tuy nhiên, phân khúc này lại chưa nhận đủ sự quan tâm và đầu tư.

Thị trường logistics Việt Nam đạt 73 tỉ đô la Mỹ vào năm 2022, chiếm 20% GDP. Trong đó, hoạt động vận tải đóng góp 60% (khoảng 44 tỉ đô la) vào tổng chi phí logistics. Vận tải đường bộ B2B (chặng đầu và chặng giữa) chiếm 62% tổng vận tải đường bộ, tương đương hơn 20 tỉ đô la mỗi năm.
Tuy nhiên, vận tải đường bộ B2B còn gặp nhiều thách thức phải kể đến như biên lợi nhuận thấp, hoạt động phân mảnh, không có quy trình tiêu chuẩn hóa, thiếu hệ thống quản lý, lực lượng lao động chưa được đào tạo chuyên sâu. Hầu hết các nhà cung cấp vận tải cần vốn lưu động lớn, thường xuyên đối mặt với việc thanh toán trễ và vỡ nợ từ khách hàng, dẫn đến chi phí tài chính cao.
Ông Lê Hoàng Anh chia sẻ thêm, tại Eco-Truck, doanh nghiệp đặt mục tiêu tối ưu hóa chi phí vận hành, xây dựng hệ sinh thái xoay quanh các nhà cung cấp vận tải đường bộ, đặc biệt tập trung vào vận tải đường bộ B2B đồng thời áp dụng công nghệ để kích hoạt dịch vụ vận tải đường bộ B2B quy mô lớn.
Chẳng hạn, doanh nghiệp giải quyết vấn đề vốn lưu động cho các nhà cung cấp vận tải bằng cách cung cấp các dịch vụ như xăng dầu, lốp xe, dầu nhớt, bảo hiểm, thanh toán sớm và tài trợ vận tải. Thay vì thanh toán sau 60 ngày như thông thường, Eco-Truck sẽ thanh toán cho các nhà cung cấp vận tải sau khi đã khấu trừ phí dịch vụ.
Cũng tại hội thảo, ông Stefan Kaufmann, Nhà sáng lập, Tổng giám đốc điều hành EBOOST, đã chia sẻ về sự dịch chuyển sang xe điện và giải pháp phát triển giao thông bền vững trong bối cảnh phát triển bền vững của Việt Nam.
Ông nêu vấn đề, lĩnh vực giao thông vận tải đang chiếm khoảng 20% tổng lượng khí thải. Đặc biệt, xe cộ trên địa bàn TPHCM chiếm khoảng 7,4 triệu xe máy, chiếm tới 60-70% lượng khí thải. Về tỷ lệ xe điện, dưới 10% là xe điện. Rào cản lớn nhất là thiếu cơ sở hạ tầng trạm sạc điện.

Như vậy, khu công nghiệp sinh thái (EIP) được xem là nền tảng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi giao thông xanh. Theo ông Stefan Kaufmann, EIP tập trung được cụm nhà máy, trung tâm logistics và dịch vụ công nghiệp, từ đó có thể dự đoán được lưu lượng xe nhân viên, phương tiện đội xe, hàng hóa, nên tỷ lệ sử dụng cơ sở hạ tầng cao. Ngoài ra, EIP được hưởng lợi từ các ưu đãi theo quy định trong các kế hoạch tăng trưởng xanh.
Các bước thực hiện là đi từ mô hình thí điểm, nâng cấp cơ sở hạ tầng xe điện trong các khu công nghiệp và khu công nghiệp. Chẳng hạn, EBOOST đang thí điểm các giải pháp sạc xe điện trong giai đoạn này.
Giai đoạn tiếp theo là lập kế hoạch các mô hình sạc xe điện mới bên trong EIP. Điều này bao gồm việc bổ sung các trạm sạc cho xe máy điện, ô tô điện hoặc xe tải/đội xe cũng như tối ưu hóa các trạm hiện có bằng năng lượng mặt trời. Cùng với đó là tích hợp cơ sở hạ tầng xe điện vào quy hoạch tổng thể của EIP, phát triển các trung tâm logistics xanh. Quá trình chuyển đổi trên sẽ góp phần giảm CO₂ cũng như tăng hiệu quả sử dụng năng lượng tái tạo.